Mục đích của nghiên cứu này là xác định được mức dinh dưỡng hợp lý của khẩu phần thức ăn nuôi trâu sinh trưởng giai đoạn 7-18 tháng tuổi ở Việt Nam. Thí nghiệm trên 12 trâu sinh trưởng, được bố trí theo phương pháp phân lô so sánh vào 3 nghiệm thức một cách ngẫu nhiên, mỗi nghiệm thức 4 con có khối lượng đồng đều nhau (2 trâu đực và 2 trâu cái). Áp dụng tiêu chuẩn ăn dùng cho trâu sinh trưởng của Kearl (1982) với các mức vật chất khô (DM), protein thô (CP) và năng lượng trao đổi (ME) khác nhau: Nghiệm thức đối chứng (NTĐC) = 100%; Nghiệm thức 1 (NT1) = 105%; Nghiệm thức 2 (NT2) = 110% cho trâu nuôi sinh trưởng giai đoạn 7-18 tháng tuổi. Kết quả sử dụng mức dinh dưỡng ở NT2 (110%) đã làm tăng lượng thức ăn thu nhận hàng ngày, tăng khối lượng cơ thể cả giai đoạn 7-18 tháng tuổi và giảm tiêu tốn thức ăn cho 1 kg tăng khối lượng của trâu. Cụ thể lượng thu nhận DM, ME và CP ở giai đoạn 7-12 tháng tuổi cao nhất ở NT2 lần lượt là 2,97 kg/ngày; 41,09 MJ/ngày và 361,51 g/ngày. Tương tự giai đoạn 13-18 tháng tuổi lần lượt là: 2,63kg; 26,73 MJ và 206,14 g/100kg KLCT. Tiêu tốn DM, ME và CP cho 1 kg tăng khối lượng giai đoạn 7-12 tháng tuổi, lần lượt là: 7,22kg; 99,54 MJ và 0,88 kg/kg tăng khối lượng. Tương tự giai đoạn 13-18 tháng tuổi lần lượt là: 15,28 kg; 155,15 MJ và 1,20 kg/kg tăng khối lượng. Giai đoạn 7-18 tháng tuổi sinh trưởng tuyệt đối cao nhất ở NT2 (580,14 g/con/ngày). Khi sử dụng khẩu phần có mức dinh dưỡng tăng hơn 10% so với tiêu chuẩn ăn cho trâu sinh trưởng của Kearl (1982), chi phí thức ăn cho 1 kg tăng khối lượng giảm 3.831 đồng/kg tăng khối lượng so với mức dinh dưỡng 105% và 6.032 đ/kg tăng khối lượng khi sử dụng khẩu phần có mức dinh dưỡng 100% so với tiêu chuẩn ăn cho trâu sinh trưởng của Kearl (1982). Kết quả nghiên cứu cho thấy mức dinh dưỡng hợp lý cho trâu sinh trưởng giai đoạn 7-18 tháng tuổi tăng 10% so với tiêu chuẩn của Kearl (1982).