Thí nghiệm đánh giá tình hình biến động về khối lượng, kích thước và khả năng sinh sản của 50 trâu cái và 10 trâu đực được tuyển chọn để làm cơ sở so sánh cho đàn con được sinh ra sau này. Trong đó, 50 trâu cái và 5 trâu đực được theo dõi cá thể ở nông hộ tại 3 xã của huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang; 5 trâu đực được theo dõi tại Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển chăn nuôi miền núi - Viện Chăn nuôi. Kết quả cho thấy khối lượng của trâu cái sinh sản qua theo dõi 12 tháng tăng từ 451,70 lên 466,05 kg, còn trâu đực tăng từ 604,88 lên 638,17 kg. Sáu tháng đầu năm, trâu đực và trâu cái có tăng khối lượng tuyệt đối và tương đối lần lượt là 100,34 và 48,06 và g/con/ngày; 1,47 và 0,51%, còn sáu tháng cuối năm lần lượt là 84,61 và 31,69 g/con/ngày; 1,20 và 0,32%. Sau 12 tháng, trâu đực và cái có vòng ngực tăng từ 209,1 và 197,88 cm lên 212,8 và 200,33 cm; dài thân chéo từ 156 và 130,15 cm lên 159,3 và 131,19 cm, cao vây từ 131,12 và 121,87 cm lên 131,6 và 122,20 cm; vòng ống từ 25,1 và 21,92 cm lên 25,3 và 22 cm; các chỉ số cấu tạo thể hình của trâu đều cao hơn trâu nội và tương đương với trâu ngoại. Đàn trâu cái có thời gian sinh sản sớm, khoảng cách lứa đẻ là 15,32 tháng, tỷ lệ phối có chửa của trâu đực và trâu cái đều trên 94%.