Đánh giá nguồn phụ phẩm chè sau chế biến khô làm thức ăn bổ sung trong chăn nuôi bò

Từ khóa:
Phụ phẩm chè khô, thức ăn bổ sung, chăn nuôi bò
Tóm tắt

Tiến hành khảo sát lấy mẫu chè tại ba tỉnh có diện tích trồng chè tương đối lớn của cả nước là Thái Nguyên, Bắc Kạn và Phú Thọ. Đối với mỗi tỉnh, chọn 03 huyện có vùng trồng chè lớn, sau đó chọn 03 xã mỗi huyện, chọn 3 thôn/xã, chọn hộ/thôn để lấy mẫu chè theo tiêu chí sau: ( i) 10% số hộ có diện tích <10 sào (một sao bằng 360 m2); (ii) 10% số hộ có diện tích từ 10 đến 100 sào và (iii) 10% số hộ có diện tích >100 sào. Các mẫu chè thu hoạch phải được xử lý bằng phương pháp thủ công và máy công nghiệp. Các chỉ tiêu theo dõi bao gồm: (i) Giống chè, năng suất, phương pháp chế biến, loại sản phẩm phụ và số lượng sản phẩm phụ; (ii) Thành phần hóa học và giá trị dinh dưỡng của phụ phẩm chè; (iii) Ảnh hưởng đến giống chè, địa phương, cây trồng, lượng phụ phẩm và thành phần hóa học của sản phẩm phụ chè. Kết quả cho thấy: Sản lượng phụ phẩm chè khô ở ba tỉnh ước tính đạt 9,6 nghìn tấn/năm, tương đương 11,49% tổng lượng chè khô. Thái Nguyên có lượng phụ phẩm lớn nhất, tiếp theo là Phú Thọ và Bắc Kạn với 4,8; 4,0 và 0,8 nghìn tấn. Phương pháp chế biến bằng máy công nghiệp sẽ cho chè với tỷ lệ phụ phẩm chè thấp hơn so với phương pháp thủ công truyền thống 8,28 so với 17,81%. Các thông số về CP, NDF và tanin của các giống chè khảo sát lần lượt nằm trong khoảng từ 16,7-19,9; 26,5-28,2 và 27,1-29,8% chất khô.

Đã Xuất bản

27-08-2024

Tải xuống

Chuyên mục

CNSH VÀ CÁC VẤN ĐỀ KHÁC

Thông báo

Chưa có thông báo nào