Nghiên cứu này nhằm đánh giá, so sánh ngoại hình và khả năng sinh trưởng của 3 nhóm con lai F1 giữa bò Red Angus, BBB và Black Wagyu với bò cái lai Zebu trong cùng một điều kiện chăn nuôi tại Công ty TNHHMTV bò sữa TP. Hồ Chí Minh làm cơ sở cho việc lai tạo và phát triển bò lai hướng thịt ở khu vực Nam Bộ. Tổng số có 50 bê lai sơ sinh gồm con lai F1 ♂ Red Angus × ♀ lai Zebu (nhóm 1: RAnZe) là 15 con, F1 ♂ BBB × ♀ lai Zebu (nhóm 2: BBbZe) là 17 con và F1 ♂ Black Wagyu × ♀ lai Zebu (nhóm 3: BWaZe) là 18 con. Kết quả cho thấy các số đo thể hình và chỉ số ngoại hình ở thời điểm 18 tháng tuổi không có sự sai khác giữa các nhóm con lai (P>0,05). Khối lượng sơ sinh ở 3 nhóm con lai dao động 26,4-28,3 kg, 6 tháng tuổi 121,1-128,2 kg, 12 tháng tuổi 201,7-220,4 kg và 18 tháng tuổi 277,7-290,2 kg. Tính bình quân cả giai đoạn từ sơ sinh đến 18 tháng tuổi thì tăng khối lượng cao nhất ở nhóm 1 là 485,8 g/con/ngày, kế đến là nhóm 2 là 472,7 g/con/ngày và thấp nhất là nhóm 3 là 464,9 g/con/ngày. Bình quân từ sơ sinh đến 18 tháng tuổi, tiêu tốn vật chất khô từ 10,2 – 10,6 kg, năng lượng trao đổi từ 23,1-24,1 Mcal và protein thô từ 872-911 g. Khối lượng sơ sinh và 6 tháng tuổi không có sự sai khác giữa 3 nhóm con lai (P>0,05). Khối lượng tại 12 và 18 tháng tuổi của con lai F1 BBB tương đương với con lai F1 Red Angus (P>0,05), trong khi đó con lai F1 Black Wagyu thấp hơn so với con lai F1 Red Angus (P<0,05) nhưng tương đương với con lai F1 BBB (P>0,05). Tăng khối lượng và tiêu tốn thức ăn cho 1 kg tăng khối lượng ở cả 3 nhóm con lai F1 là tương đương nhau. Như vậy, ngoài nhóm con lai Red Angus đang được người chăn nuôi ưa chuộng thì có thể phát triển nhóm con lai BBB và Black Wagyu ở khu vực Nam Bộ để đa dạng hóa công thức bò lai hướng thịt.