Nghiên cứu nhằm bước đầu đánh giá đa hình trên vùng exon 3 của gene FABP4 ở hai nhóm bò lai Wagyu bằng kỹ thuật PCR/RFLP. Tổng số 112 mẫu máu cá thể trong đó có 56 mẫu từ mỗi nhóm giống bò Wagyu lai với bò cái lai (Red Angus x lai Brahman)-WAB và bò Wagyu lai với bò cái lai (Charolais x lai Brahman) -WCB. Khuếch đại đoạn gene mục tiêu với kích thước 565 bp và phân cắt sản phẩm PCR bởi enzyme NlaIII. Kết quả cho thấy đa hình gene tại vị trí FABP4/NlaIII được nhận diện trên cả quần thể bò khảo sát với hai allen với tần số G (0,853) và A (0,147) với hai kiểu gene GG (0,705) và GA (0,295). Hệ số dị hợp mong đợi (He) và hàm lượng thông tin đa hình (PIC) lần lượt là 0,251 và 0,220. Đối với nhóm bò WAB, tần số allen G (0,946) và A (0,054), tần số kiểu gene GG (0,893) và GA (0,157). Giá trị He và PIC lần lượt là 0,101 và 0,096. Tương tự với nhóm bò WCB, tần số allen G (0,759) và A (0,241), tần số kiểu gene GG (0,518) và GA (0,482). Giá trị He và PIC lần lượt là 0,366 và 0,299. Phân bố allen ở quần thể chung hay nhóm bò WAB ở trạng thái cân bằng Hardy-Weinberg. Từ kết quả có thể kết luận rằng đa hình gene tại vị trí FABP4/NlaIII được nhận diện với hai allen và 2 kiểu gene, kiểu gene GG có xu hướng trội, giá trị He<Ho và PIC thấp trong quần thể bò khảo sát. Nhóm bò mang kiểu gene GA có ảnh hưởng tích cực đến chỉ số mỡ giắt lúc 12 tháng tuổi so với nhóm bò mang kiểu gene GG. Việc mở rộng dung lượng mẫu khảo sát, phân tích quan hệ giữa đa hình gene FABP4/NlaIII với tính trạng về chỉ số mỡ giắt ở thời điểm 24 tháng tuổi và lúc giết mổ là điều cần thiết để tạo cơ sở dữ liệu hỗ trợ chọn lọc ở cấp độ phân tử nhằm nâng cao chất lượng thịt bò. Bên cạnh đó việc duy trì kiểu gene GA trong quần thể là điều cần quan tâm.